Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Danh Thanh
Sự cần thiết:
Bệnh ung thư có xu hướng ngày càng gia tăng trong những thập niên gần đây. Theo GLOBOCAN 2020, trên toàn cầu có 19.292.789 người mới mắc và 9.958.133 triệu người chết vì bệnh này. Gần 30 triệu người đang phải sống chung với bệnh ung thư.
Theo nhận định của Bộ Y tế, mô hình bệnh tật ở nước ta hiện là một mô hình kép, bên cạnh các bệnh nhiễm trùng, suy dinh dưỡng của các nước chậm phát triển, các bệnh ung thư, tim mạch, tâm thần đang có nguy cơ tăng nhanh giống như các nước công nghiệp phát triển. Ở Việt Nam có hơn 182.000 trường hợp mới mắc ung thư và hơn 122.000 ca tử vong. Bệnh ung thư nhiều khi không có triệu chứng lâm sàng ban đầu rõ rệt.
Bệnh nhân ung thư được phát hiện thường đã ở giai đoạn muộn, có di căn xa. Tỷ lệ ung thư di căn xương chiếm vào khoảng 30 - 85% số bệnh nhân tùy theo loại ung thư và giai đoạn bệnh. Di căn ung thư vào xương không những làm giảm thời gian sống thêm của bệnh nhân mà còn gây ra các biến chứng, thường gặp nhất là đau xương.
Giảm đau là một trong những vấn đề cần được chú trọng hàng đầu trong điều trị bệnh nhân ung thư. Đau đớn sẽ làm suy sụp người bệnh một cách toàn diện về thể lực, tinh thần, dinh dưỡng, ảnh hưởng đến các sinh hoạt bình thường và cả kết quả điều trị bệnh. Giảm và cắt cơn đau là mong muốn của bệnh nhân, của người nhà bệnh nhân cũng như mục đích của điều trị.
Có nhiều phương pháp điều trị giảm đau: phẫu thuật, hóa trị, thuốc giảm đau và xạ trị. Mỗi phương pháp chỉ có tác dụng trong những trường hợp nhất định. Việc sử dụng thuốc giảm đau có tác dụng trong thời gian ngắn, phải tăng liều dùng và gây nhiều tác dụng không mong muốn. Sử dụng hoá chất liều cao kéo dài gây suy chức năng gan, thận, cơ quan tạo máu...
Xạ trị giảm đau đang được áp dụng ngày càng rộng rãi vì tính hiệu quả của phương pháp. Điều trị giảm đau ung thư di căn xương có thể bằng xạ trị chiếu ngoài hoặc xạ trị trong (xạ trị chuyển hóa). Đối với bệnh nhân di căn nhiều vị trí, loại tạo cốt bào, xạ trị trong bằng P-32, Sm-153 hoặc Sr-89... được chứng minh có hiệu quả. Với bệnh nhân có di căn 1 - 2 vị trí, xạ trị tại chỗ đạt hiệu quả giảm đau nhanh sau 3 - 4 ngày, duy trì giảm đau kéo dài có thể tới 3 tháng.
Dùng phối hợp biphosphonate với tia xạ được chứng minh có tác dụng kéo dài hiệu lực giảm đau, giảm nguy cơ gãy xương bệnh lý, ngăn ngừa, kìm hãm quá trình xuất hiện ổ di căn mới.
Điều trị giảm đau ung thư di căn xương bằng xạ trị, nhất là xạ trị trong bằng P-32 đã được triển khai ứng dụng ở nhiều cơ sở Y học hạt nhân trong nước. Tuy nhiên, không phải tất cả các cơ sở đều có xạ trị gia tốc và máy ghi hình phóng xạ SPECT, nên việc chỉ định xạ trị trong, xạ trị chiếu ngoài chưa thật sự thống nhất, cần có sự thống nhất quy trình xạ trị.
Mục tiêu:
- Đánh giá tác dụng điều trị giảm đau bằng đồng vị phóng xạ P-32 hoặc chiếu xạ ngoài kết hợp biphosphonate trên bệnh nhân ung thư vú di căn xương, ung thư phổi di căn xương và ung thư tiền liệt tuyến di căn xương.
- Đề xuất hoàn thiện quy trình điều trị giảm đau bằng đồng vị phóng xạ P-32 cho bệnh nhân ung thư vú di căn xương, ung thư phổi di căn xương và ung thư tiền liệt tuyến di căn xương.
- Đề xuất hoàn thiện quy trình điều trị giảm đau bằng chiếu xạ ngoài kết hợp biphosphonate cho bệnh nhân ung thư vú di căn xương, ung thư phổi di căn xương và ung thư tiền liệt tuyến di căn xương.
Nội dung nghiên cứu:
- Đặc điểm nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Tác dụng điều trị giảm đau của P-32.
- Kết quả điều trị giảm đau bằng chiếu xạ ngoài.
- Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau điều trị.
- Tính an toàn của giảm đau bằng P-32 và chiếu xạ ngoài.
Kết quả của đề tài:
Đề tài đã thực hiện điều trị giảm đau cho 54 bệnh nhân ung thư di căn xương bằng đồng vị phóng xạ P-32 liều 7mCi/bệnh nhân và 30 bệnh nhân ung thư di căn xương 1-2 vị trí được xạ trị giảm đau bằng tia X trên máy gia tốc tuyến tính LINAC 4Gy/ngày x 5 ngày. Lựa chọn phương pháp xạ trị giảm đau bằng P-32 hay chiếu xạ ngoài chủ yếu là do số tổn thương di căn đơn ổ hay đa ổ. Đánh giá kết quả điều trị thông qua điểm đau trước-sau điều trị, thời gian bắt đầu có hiệu lực giảm đau, kéo dài hiệu lực giảm đau, tái phát đau, tác dụng không mong muốn. Việc dùng thuốc giảm đau sau điều trị... Kết quả cho thấy cả P-32 và xạ trị chiếu ngoài bằng tia X trên máy gia tốc LINAC đều đạt hiệu lực giảm đau tốt, là phương pháp an toàn nếu có chỉ định hợp lý. Từ kết quả nghiên cứu của đề tài và trên cơ sở quy trình điều trị giảm đau cho bệnh nhân ung thư di căn xương bằng thuốc phóng xạ do Bộ Y tế ban hành năm 2013, chúng tôi đề xuất quy trình điều trị giảm đau bằng P-32 và bằng xạ trị chiếu ngoài cho bệnh nhân ung thư vú, ung thư phổi và ung thư tiền liệt tuyến di căn xương.
1. Trên 84 bệnh nhân đau do ung thư di căn xương (47/84 bệnh nhân ung thư phổi; 31/84 bệnh nhân ung thư vú và 6/84 bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt), trong đó 54 bệnh nhân được điều trị bằng P-32 và 30 bệnh nhân được xạ trị giảm đau bằng tia X trên máy gia tốc tuyến tính LINAC cho phép rút ra kết luận:
Với 54 bệnh nhân được điều trị bằng P-32:
+ Sau điều trị 1 tuần, 38/54 (70,4%) có đáp ứng với điều trị, giảm mức độ đau, bệnh nhân đau vừa trước điều trị đáp ứng với P-32 tốt hơn bệnh nhân đau nặng. Điểm đau trung bình giảm từ 7,4 ± 1,3 trước điều trị xuống còn 5,3 ± 2,4.
+ Sau điều trị 2 tuần, điểm đau trung bình giảm còn 4,3 ± 2,4 điểm. 48/54 (88,9%) đáp ứng với giảm đau, trong đó 6 bệnh nhân (11,1%) hết đau hoàn toàn.
+ Trung bình thời gian bắt đầu có hiệu lực giảm đau 5,2 ± 2,9 ngày. 77,1% duy trì hiệu lực giảm đau trong tháng đầu tiên, tháng thứ hai là 56,3% và hết tháng thứ ba là 27,1%.
+ Đáp ứng với giảm đau ở bệnh nhân ung thư vú đạt 80,9%, cao hơn so với bệnh nhân ung thư phổi (68,9%). Thời điểm bắt đầu có hiệu lực giảm đau đạt sớm hơn ở bệnh nhân ung thư vú (4,3 ± 2,7 ngày) so với ung thư phổi (5,4
± 2,8) ngày. Hiệu lực giảm đau ở bệnh nhân ung thư vú kéo dài hơn.
Với 30 bệnh nhân được chiếu xạ ngoài bằng tia X suất liều 4Gy/lần x 5 lần phối hợp với biphosphonate:
+ Kết quả sau 1 tuần, giảm đau đạt được ở 23/30 bệnh nhân (76,7%), sau 2 tuần ở 28/30 (93,3%). Giảm đau tốt nhất đạt được sau 1 tháng điều trị, điểm đau trung bình từ 6,4 ± 0,5 giảm xuống còn 2,0 ± 1,4.
+ Thời gian bắt đầu có hiệu lực giảm đau sau điều trị sớm nhất sau 1 ngày, chậm nhất sau 15 ngày, trung bình 3,5 - 1,8 ngày.
+ Trong tháng đầu tiên chưa có bệnh nhân tái phát đau. Hiệu lực giảm đau hết tháng thứ hai là 82,2% và sau 3 tháng là 64,3%.
Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau điều trị giảm đau bằng P-32 và chiếu xạ ngoài đều được cải thiện rõ rệt.
2. Trên cơ sở quy trình điều trị giảm đau cho bệnh nhân ung thư di căn xương bằng thuốc phóng xạ của Bộ Y tế, đã hoàn thiện quy trình điều trị giảm đau bằng P-32 cho bệnh nhân ung thư vú di căn xương, ung thư phổi di căn xương và ung thư tiền liệt tuyến di căn xương.
3. Có được quy trình điều trị giảm đau bằng chiếu xạ ngoài kết hợp biphosphonate cho bệnh nhân ung thư vú di căn xương, ung thư phổi di căn xương và ung thư tiền liệt tuyến di căn xương.